Sốc nhiễm trùng là gì? Các công bố khoa học về Sốc nhiễm trùng

Sốc nhiễm trùng là một trạng thái khẩn cấp và nguy hiểm của cơ thể khi bị tấn công bởi vi khuẩn gây nhiễm trùng và gây ra sự phản ứng cực đoan trong hệ thống mi...

Sốc nhiễm trùng là một trạng thái khẩn cấp và nguy hiểm của cơ thể khi bị tấn công bởi vi khuẩn gây nhiễm trùng và gây ra sự phản ứng cực đoan trong hệ thống miễn dịch. Trạng thái này khiến cơ thể không thể cân bằng được hệ thống tuần hoàn, dẫn đến một loạt các triệu chứng và biểu hiện nghiêm trọng như huyết áp thấp, nhịp tim nhanh, dẹp nhuận (khởi phát tổn thương cơ bàng quang), hôn mê và thậm chí có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Sốc nhiễm trùng xảy ra khi vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn gây nhiễm trùng lan ra khắp cơ thể và kích hoạt một phản ứng cực đoan của hệ thống miễn dịch. Điều này dẫn đến sự vi kỷ hoạt quá mức của hệ thống miễn dịch, gây ra tổn thương cho các mô và cơ quan trong cơ thể.

Các nguyên nhân phổ biến gây sốc nhiễm trùng bao gồm vi khuẩn như Staphylococcus, Streptococcus, Escherichia coli (E. coli) và Pseudomonas aeruginosa, cũng như các vi khuẩn kí sinh trùng và nấm. Sốc nhiễm trùng cũng có thể xảy ra do vi-rút, nhưng điều này hiếm hơn.

Các triệu chứng của sốc nhiễm trùng có thể bao gồm:
1. Huyết áp thấp: Mạch máu sụt giảm do mất chất lưu chuyển và mở rộng mạch máu với mục đích duy trì dòng máu đến các cơ quan quan trọng.
2. Nhịp tim nhanh: Hệ thống tuần hoàn thúc đẩy hoạt động mạnh mẽ hơn để cố gắng duy trì tuần hoàn máu.
3. Nhiễm trùng da: Có thể xuất hiện da màu xanh hoặc tím do thiếu oxy, hoặc da có hiện tượng ban đỏ, ban nhọt.
4. Hôn mê: Do thiếu máu và oxy cung cấp cho não.
5. Nhiễm trùng phổi: Gây ra hội chứng suy hô hấp, do vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn tấn công phổi.

Sốc nhiễm trùng là một tình trạng cấp tính và nguy hiểm, yêu cầu điều trị ngay lập tức. Điều trị thường bao gồm sử dụng kháng sinh mạnh, dùng corticosteroid để kiềm chế phản ứng vi khuẩn, và thậm chí có thể cần đến việc hỗ trợ hệ thống tuần hoàn bằng cách sử dụng máy trợ tim hoặc tác động áp suất biểu lợi.
Sốc nhiễm trùng là một trạng thái cấp tính, nguy hiểm và tiềm ẩn nguy cơ tử vong. Nó được coi là một loại sốc đa cơ quan (multi-organ shock) vì nó ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống trong cơ thể.

Các nguyên nhân gây sốc nhiễm trùng bao gồm vi khuẩn, vi rút, nấm, ký sinh trùng và các độc chất từ vi khuẩn. Sốc nhiễm trùng có thể xuất hiện sau một nhiễm trùng, bệnh viêm nhiễm, phẫu thuật hoặc chấn thương nghiêm trọng.

Sốc nhiễm trùng gây hại bằng cách kích hoạt một loạt các phản ứng vi kỷ hoạt trong hệ thống miễn dịch. Cụ thể, vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn thâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ tuần hoàn và lan rộng, gây ra một mô hình vi kỷ hoạt miễn dịch dữ dội. Sự vi kỷ hoạt miễn dịch gây ra sự giải phóng các chất gây viêm, như cytokines, chemokines và prostaglandins. Những chất này tạo ra một phản ứng vi kỷ hoạt loạn xạ, gây ra tổn thương cấu trúc tế bào, sốc tuần hoàn và hư hại cho mô và cơ quan.

Triệu chứng sốc nhiễm trùng có thể bao gồm:
- Huyết áp thấp: Một trong những triệu chứng chính của sốc nhiễm trùng là huyết áp thấp, do mất chất và suy giảm trở lực mạch máu.
- Nhịp tim nhanh: Cơ tim hoạt động mạnh mẽ hơn để đảm bảo duy trì lưu thông máu.
- Sự suy giảm áp lực tâm trương: Áp lực tâm trương (đo lực mà tim bơm máu cho toàn bộ cơ thể) bị suy giảm do hệ thống các mạch máu giãn nở và giảm điều chỉnh tăng cường tuần hoàn máu.
- Bất ổn huyết động: Hệ thống tuần hoàn hỗn loạn, gây ra sự biến đổi từ một trạng thái bất ổn đến một trạng thái sụt giảm.
- Thiếu máu: Sốc nhiễm trùng gây ra sự suy giảm cung cấp oxy đến các cơ quan, dẫn đến thiếu máu và tổn thương tế bào.
- Rối loạn chức năng nhiều cơ quan: Một số triệu chứng khác có thể bao gồm suy thận, suy tim, suy phổi, gan khả năng, tổn thương não và rối loạn huyết động.

Điều trị sốc nhiễm trùng bao gồm:
- Sử dụng kháng sinh mạnh: Điều trị chống vi khuẩn là rất quan trọng khi điều trị sốc nhiễm trùng.
- Điều chỉnh hàng nước và điện giữ cân bằng chất lưu chuyển: Điều trị bằng nạo vét tĩnh mạch để cung cấp chất lưu bổ sung và duy trì áp lực máu.
- Hỗ trợ hệ thống tuần hoàn: Điều trị có thể đòi hỏi sử dụng máy trợ tim và dùng thuốc tăng cường áp suất máu.

Sốc nhiễm trùng là một tình trạng cực kỳ nguy hiểm và cần yêu cầu chẩn đoán và điều trị sớm. Việc phát hiện và điều trị kịp thời có thể cứu sống người bệnh và giảm tỷ lệ tử vong.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sốc nhiễm trùng":

Klebsiella spp. như Nhiễm Trùng Bệnh Viện: Dịch Tễ Học, Phân Loại, Các Phương Pháp Định Tuổi, và Yếu Tố Gây Bệnh Dịch bởi AI
Clinical Microbiology Reviews - Tập 11 Số 4 - Trang 589-603 - 1998
TÓM TẮT

Vi khuẩn thuộc chi Klebsiella thường gây nhiễm trùng bệnh viện ở người. Đặc biệt, chủng Klebsiella có ý nghĩa y tế quan trọng nhất, Klebsiella pneumoniae, chiếm tỷ lệ lớn trong số các nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi, nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng mô mềm mắc phải trong bệnh viện. Các ổ chứa bệnh lý chính cho sự truyền nhiễm của Klebsiella là đường tiêu hóa và tay của nhân viên bệnh viện. Do khả năng lan rộng nhanh chóng trong môi trường bệnh viện, những vi khuẩn này có xu hướng gây ra các đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện. Các đợt bùng phát trong bệnh viện của các chủng Klebsiella đa kháng thuốc, đặc biệt là những chủng trong khu sơ sinh, thường do các loại chủng mới gây ra, được gọi là các chủng sản xuất β-lactamase phổ rộng (ESBL). Tỷ lệ các chủng sản xuất ESBL trong số các chủng Klebsiella lâm sàng đã liên tục tăng lên trong những năm gần đây. Các hạn chế điều trị dẫn đến đòi hỏi những biện pháp mới để quản lý nhiễm trùng Klebsiella trong bệnh viện. Trong khi các phương pháp định tuổi khác nhau là các công cụ dịch tễ học hữu ích để kiểm soát nhiễm trùng, những phát hiện gần đây về các yếu tố độc lực của Klebsiella đã cung cấp những hiểu biết mới về chiến lược gây bệnh của những vi khuẩn này. Yếu tố gây bệnh của Klebsiella như nang hoặc lipopolysaccharides hiện đang được coi là các ứng viên triển vọng cho nỗ lực tiêm chủng có thể phục vụ như các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng miễn dịch.

#chi Klebsiella #Klebsiella pneumoniae #nhiễm trùng bệnh viện #β-lactamase phổ rộng (ESBL) #chiến lược gây bệnh #yếu tố độc lực #kháng thuốc đa dược phẩm #tiêm chủng #vi sinh bệnh viện #kiểm soát nhiễm trùng.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và phân tích một số yêu tố liên quan đến kết quả điều trị bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 47 bệnh nhânsốc nhiễm khuẩn. Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 61,4 ±15,2. Tuổi cao nhất là 92 và tuổi thấp nhất là 15. Giới tính nam chiếm tỷ lệ cao hơn 76,6%, nữ chỉ chiếm 23,4%.Đa phần các bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có không có sốt hoặc sốt nhẹ. Sốt cao chỉ chiếm 23,4%, trong khi đó tỉ lệ bệnh nhân không sốt chiếm cao nhất tới 61,7%. Vị trí ổ nhiễm khuẩn tiên phát thường gặp chủ yếu là cơ quan hô hấp và tiêu hóa, trong đó hô hấp chiếm 44,7%, tiêu hóa là 34%. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn chỉ cho kết quả dương tính 17%. Gía trị trung bình lactat máu của bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn là 6,82 ± 4,16. Đa số bệnh nhân có gái trị lactat máu > 6 mmol/l chiếm tỉ lệ 51,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% giữa tình trạng rối loạn đông máu, thở máy xâm nhập và kết cục ra viện ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Kết luận: Bệnh nhân tuổi càng cao càng có nguy cơ sốc nhiễm khuẩn cao hơn. Nam giới có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn nữ giới. Ổ nhiễm khuẩn tiên phát thường gặp nhất là cơ quan hô hấp, tỉ lệ cấy máu dương tính thấp. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% giữa tình trạng rối loạn đông máu, thở máy xâm nhập và kết cục ra viện ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.
#Lâm sàng #cận lâm sàng #yếu tố liên quan #sốc nhiễm khuẩn.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA RỐI LOẠN ĐÔNG CẦM MÁU VÀ SUY CHỨC NĂNG ĐA CƠ QUAN TRÊN BỆNH NHI SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ TÍCH CỰC NỘI, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Đặt vấn đề: Rối loạn đông cầm máu là một biến chứng thường gặp trong sốc nhiễm khuẩn, đặc biệt đông máu rải rác trong lòng mạch là yếu tố nguy cơ gâysuy chức năng cơ quan, và làm tăng tỷ lệ tử vong của bệnh. Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 56 trẻ đượcchẩn đoán sốc nhiễm khuẩn tại khoa Điều trị tích cực nội, Bệnh viện Nhi Trung Ương từ tháng 08/2019 đến tháng 08/2020. Kết quả: Tại thời điểm chẩn đoán, tỷ lệ rối loạn đông cầm máu tương ứng là: giảm số lượng tiểu cầu (SLTC) (30,4%), PTs(prothrombin time) kéo dài (60,7%), APTTs (partial thromboplastin time) kéo dài (53,6%), bất thường nồng độ fibrinogen (60,7%), tăng D-Dimer (98,2%). Nhóm suy >2 tạng có SLTC thấp hơn, đông máu nội sinh và ngoại sinh kéo dài hơn, nồng độ D-Dimer cao hơn so với nhóm suy 2 tạng (p <0,05). Nhóm có đông máu rải rác trong nội mạch (disseminated intravascular coagulation – DIC) với điểm DIC >4 có nguy cơ suy >3 cơ quan, >4 cơ quan, > 5 cơ quan tương ứng OR=10,5 lần; OR=6,1 lần; và OR=6,5 lần so với nhóm có điểm DIC ≤4 (p <0,05). Kết luận: Trong sốc nhiễm khuẩn, rối loạn đông cầm máu là một biến chứng thường gặp. Rối loạn đông cầm máu là yếu tố làm tăng nguy cơ suy chức năng đa cơ quan.
#rối loạn đông cầm máu #sốc nhiễm khuẩn #suy chức năng đa cơ quan
Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh nhiễm khuẩn huyết tại Trung tâm Hồi sức Tích cực - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Khảo sát nguy cơ suy dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết tại Trung tâm Hồi sức tích cực - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2020-2021. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu 126 bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm khuẩn huyết điều trị tại Trung tâm Hồi sức tích cực, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ tháng 11/2020 đến tháng 8/2021. Kết quả: 60,32% là nam giới, tuổi độ trung bình 58,18 ± 15,22 tuổi; vị trí khởi phát chủ yếu là nhiễm khuẩn đường hô hấp chiếm 45,24%; sốc nhiễm khuẩn 29,36%. Tỷ lệ trào ngược dạ dày 27,77%; tỷ lệ viêm loét dạ dày 6,34%. Tỷ lệ albumin huyết thanh < 35g/dl (72,22%); bạch cầu lympho < 2G/l (69,37%), giá trị trung bình 1,35 ± 1,22G/l. Có 90,48% người bệnh tăng CRP và 34,13% người bệnh giảm protein toàn phần. Tỷ lệ bệnh nhân có nguy cơ suy dinh dưỡng cao theo thang điểm NUTRIC là 29,37%; điểm NUTRIC trung bình là 3,02 ± 2,2; suy dinh dưỡng theo phân loại BMI là 19,05%. Những bệnh nhân có BMI < 18,5 có nguy cơ suy dinh dưỡng theo NUCTRIC cao hơn gấp 2,45 lần so với những bệnh nhân có BMI ≥ 18,5 với p<0,05. Bệnh nhân ≥ 60 tuổi có nguy cơ suy dinh dưỡng cao hơn bệnh nhân < 60 tuổi. Kết luận: Những bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết có nguy cơ suy dinh dưỡng cao cần có các biện pháp can thiệp dinh dưỡng sớm phù hợp để tránh biến chứng và cải thiện kết quả điều trị.
#Nhiễm khuẩn huyết #dinh dưỡng #Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 #điều dưỡng chăm sóc
THỰC TRẠNG NHIỄM TRÙNG CATHETER ĐƯỜNG VÀO MẠCH MÁU TRÊN BỆNH NHÂN LỌC MÁU CẤP CỨU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 2 - 2021
Nhiễm trùng catheter đường vào mạch máu là biến chứng nguy hiểm và là nguyên nhân tăng tỷ lệ mắc bệnh đáng kể, phải loại bỏ ống thông và tăng tỷ lệ tử vong với bệnh nhân được đặt catheter. Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát tình trạng nhiễm trùng và một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm trùng ở bệnh nhân lọc máu cấp cứu. Đối tượng và phương pháp: Mô tả 52 trường hợp nghi ngờ nhiễm trùng liên quan đến catheter tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 3 năm 2019 đến tháng 3 năm 2021. Kết quả và bàn luận: Tuổi trung bình 46,85 ± 20,15 (16-85 tuổi), tỷ lệ nam: nữ là 2,25:1. Nhóm có sốt chiếm 82,7%, nhóm không sốt chiếm 17,3%. TM đùi phải là vị trí nhiễm khuẩn thường gặp nhất khi đặt catheter. Trên lâm sàng hay gặp biểu hiện chảy dịch tại vị trí đặt. Vi khuẩn gây bệnh chủ yếu là S.aureus, tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết do S. aureus của mẫu nghiên cứu là 28/38 (75,7%).  Các yếu tố như giới tính nam, mùa đặt làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn. Các yếu tố như tiền sử bệnh, mức độ thiếu máu, tình trạng dinh dưỡng không làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết của bệnh nhân. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm khuẩn huyết liên quan đến catheter chiếm 75,7%, chủ yếu là S. aureus. Nhiễm trùng liên quan đến catheter trên bệnh nhân lọc máu cấp cứu có thể ở bất cứ lứa tuổi nào, thường gặp ở nam. Các yếu tố như thời gian đặt, mùa đặt làm tăng tỷ lệ nhiễm khuẩn. Cần chú ý hướng dẫn bệnh nhân vệ sinh và chăm sóc catheter khi có catheter lọc máu.
#Nhiễm trùng liên quan đến catheter #lọc máu
ĐẶC ĐIỂM RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU TRÊN BỆNH NHI SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ TÍCH CỰC BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Xác định đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của rối loạn đông máu trên bệnh nhi sốc nhiễm khuẩn tại khoa Điều trị tích cực, Bệnh viện Nhi Trung Ương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả trên 56 trẻ được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn từ 08/2019 đến 08/2020. Kết quả: Tuổi trung vị: 7,5 tháng. Biểu hiện lâm sàng của rối loạn đông máu bao gồm: Xuất huyết và huyết khối gặp với tỷ lệ lần lượt là 19,7% và 1,8%. 100% bệnh nhi có bất thường xét nghiệm đông máu cơ bản; bao gồm: tăng đông (30,4%), giảm đông (16,1%), hỗn hợp (53,5%). Kết luận: Tỷ lệ RLĐM ở trẻ bị sốc nhiễm khuẩn cao, nhưng tỷ lệ xuất huyết và huyết khối trên lâm sàng thấp. Phát hiện sớm RLĐM cần kết hợp các dấu hiệu lâm sàng và xét nghiệm đông máu giúp chỉ định phương pháp điều trị hợp lý và kịp thời.
#Sốc nhiễm khuẩn #rối loạn đông cầm máu #tăng đông #giảm đông
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI TRUNG TÂM HỒI SỨC CẤP CỨU - CHỐNG ĐỘC, BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 NĂM 2022
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị ở bệnh nhân (BN) sốc nhiễm khuẩn (SNK) tại Trung tâm Hồi sức Cấp cứu - Chống độc, Bệnh viện Quân y 103. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả, tiến cứu trên 50 BN SNK, > 18 tuổi từ tháng 01 - 11/2022. Kết quả: 50 BN được chẩn đoán SNK, trong đó 36 BN (72%) cấy máu dương tính và 14 BN (28%) cấy máu âm tính. A. baumannii và E. coli  là các tác nhân thường gặp nhất (28% và 17%) ở BN SNK. Tuổi, giới tính và điểm GCS tương đương giữa 2 nhóm (p > 0,05). Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm cấy máu âm tính và dương tính về tỷ lệ BN phải thở máy (57,14% so với 61,1%; p > 0,05), tỷ lệ phải điều trị thay thế thận CRRT (57,14% so với 44,4%; p > 0,05) và nồng độ PCT (49,9 ± 36,3 so với 47,43 ± 40,5; p > 0,05). Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong ở nhóm cấy máu dương tính cao hơn có ý nghĩa thống kê (66,67% so với 28,57% ; p < 0,05). Tuổi, giới tính, huyết áp trung bình và nồng độ lactate máu là các yếu tố nguy cơ liên quan đến tỷ lệ cấy khuẩn cấy máu dương tính với vi khuẩn. Kết luận: Tỷ lệ tử vong ở BN SNK có cấy máu dương tính cao hơn có ý nghĩa so với cấy máu âm tính. Tuổi, giới tính, huyết áp trung bình và nồng độ lactate là các yếu tố nguy cơ độc lập liên quan đến tỷ lệ cấy khuẩn dương tính ở BN SNK.
#Kháng kháng sinh #Vi khuẩn #Sốc nhiễm khuẩn
GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG TỬ VONG CỦA LACTAT MÁU Ở NGƯỜI BỆNH SỐC NHIỄM KHUẨN ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2018-2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 2 - 2023
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 134 người bệnh sốc nhiễm khuẩn điều trị tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương giai đoạn 2018 – 2022 nhằm đánh giá giá trị tiên lượng tử vong của lactat máu trong sốc nhiễm khuẩn. Kết quả: Nồng độ lactat máu trung bình tại thời điểm sốc nhiễm khuẩn là 5,5 ± 4,0 mmol/l, cao nhất tại thời điểm sau sốc 24h và giảm dần ở các thời điểm sau sốc 48 giờ và 72 giờ. Tại tất cả các thời điểm sốc nhiễm khuẩn và sau sốc, nồng độ lactat trung bình của nhóm tử vong cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm còn sống. Lactat máu có khả năng tiên lượng tử vong ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn, với diện tích dưới đường cong là 0,703, p<0,001 (95%CI: 0,605 – 0,801). Giá trị cut-off của lactat trong phân tích giữa nhóm sống và nhóm tử vong là 3,95 mmol/l (J = 0,367), với độ nhạy là 65,6% và độ đặc hiệu là 71,1%. Phân tích hồi quy logistic đơn biến cho thấy người bệnh có nồng độ lactat  ≥ 3,95 mmol/l có nguy cơ tử vong cao gấp 4,6 lần so với những người bệnh có nồng độ lactat <3,95 mmol/l (p<0,001). Nồng độ lactat sau sốc 48h có khả năng tiên lượng tử vong tốt nhất so với thời điểm sốc nhiễm khuẩn và sau sốc 24h với diện tích dưới đường cong (AUC) là 0,818, p = 0,000 (95%CI: 0,711 – 0,924). Kết luận: Nồng độ Lactat máu tại thời điểm sau sốc 48h có giá trị tiên lượng tử vong tốt. Do vậy cần xét nghiệm lactat máu nhiều lần sau sốc nhiễm khuẩn, đặc biệt là sau sốc 48h, nhằm giúp tiên lượng người bệnh tốt hơn.
#Sốc nhiễm khuẩn #lactat máu #tiên lượng #tử vong
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI BỆNH VIỆN BỆNH NHIỆT ĐỚI TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2017 - 2022
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 522 Số 1 - 2023
Nghiên cứu cắt ngang trên 260 người bệnh ≥ 18 tuổi được chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn từ sau khi vào viện nhằm mô tả về kết quả điều trị sốc nhiễm khuẩn tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương, giai đoạn 2017-2022;. Có 98,8% có điểm SOFA lúc vào viện ≥ 2 điểm (trung bình 10 ± 4 điểm), tỷ lệ cấy máu dương tính 23,5% (16,2% vi khuẩn gram âm và 7,3% gram dương). Các kháng sinh được sử dụng nhiều nhất là Imipenem (44,6%), Meropenem (39,6%) và Linezolid (26,9%); 68,1% bệnh nhân được dùng 2 loại kháng sinh. Nor-epinephrine là thuốc vận mạch đầu tay dùng cho 98,8% trường hợp, liều trung bình 0,28±0,44 µg/kg/phút; có 76,2% người bệnh dùng ≥ 2 loại vận mạch. Tỷ lệ bệnh nhân đạt huyết áp trung bình (MAP) > 65 mmHg và nước tiểu ≥ 0,5 ml/kg/giờ trong 6 giờ sau sốc lần lượt là 80,8% và 35,0%. Có 38,1% ca bệnh thoát sốc; trong đó 14,1% tái sốc trở lại, trung bình 12 ± 10 ngày sau khi thoát sốc, tỷ lệ hồi phục là 42,9%. Tử vong sớm trong 3 ngày sau vào viện, chiếm 30,4%; tử vong muộn sau 3 ngày vào viện là 34,6%.
#kết quả điều trị #sốc nhiễm khuẩn #Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung Ương
VAI TRÒ CỦA FIBRINMONOMER HÒA TAN TRONG CHẨN ĐOÁN ĐÔNG MÁU NỘI QUẢN RẢI RÁC Ở BỆNH NHÂN SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI TRUNG TÂM CẤP CỨU A9 BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Mô tả sơ bộ tình trạng đông máu nội quản rải rác trên bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Đánh giá vai trò của fibrinmonomer hòa tan trong chẩn đoán đông máu nội quản rải rác trên bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn thu thập được tại trung tâm cấp cứu A9 bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ  tháng 6 năm 2020 đến tháng 4 năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 61 bệnh nhân được lấy theo phương pháp chọn mẫu thuận tiện,đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ, nghiên cứu sử dụng thang điểm chẩn đoán đông máu nội quản rải rác(DIC) của ISTH 2001, tiêu chuẩn chẩn đoán sốc nhiễm khuẩn theo Sepsis-3. Kết quả: 61 bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn được lấy vào nghiên cứu có độ tuổi trung bình 59.95 ± 12.23, nam giới chiếm 73.8%. Nguyên nhân hàng đầu là từ hô hấp đến ổ bụng, tiết niệu. Có 34 bệnh nhân được chẩn đoán DIC toàn thể chiếm 55.8%. Fibrinmonomer có vai trò trong chẩn đoán DIC với diện tích dưới đường cong ROC, độ đặc hiệu, giá trị dự báo âm tính, giá trị dự báo dương tính cao hơn  D-Dimer.
#sốc nhiếm khuẩn #đông máu nội quản rải rác #DIC #fibrin monomer hòa tan #D-dimer #bệnh viện Bạch Mai
Tổng số: 45   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5