Sốc nhiễm trùng là gì? Các công bố khoa học về Sốc nhiễm trùng

Sốc nhiễm trùng là một trạng thái khẩn cấp và nguy hiểm của cơ thể khi bị tấn công bởi vi khuẩn gây nhiễm trùng và gây ra sự phản ứng cực đoan trong hệ thống mi...

Sốc nhiễm trùng là một trạng thái khẩn cấp và nguy hiểm của cơ thể khi bị tấn công bởi vi khuẩn gây nhiễm trùng và gây ra sự phản ứng cực đoan trong hệ thống miễn dịch. Trạng thái này khiến cơ thể không thể cân bằng được hệ thống tuần hoàn, dẫn đến một loạt các triệu chứng và biểu hiện nghiêm trọng như huyết áp thấp, nhịp tim nhanh, dẹp nhuận (khởi phát tổn thương cơ bàng quang), hôn mê và thậm chí có thể gây tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
Sốc nhiễm trùng xảy ra khi vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn gây nhiễm trùng lan ra khắp cơ thể và kích hoạt một phản ứng cực đoan của hệ thống miễn dịch. Điều này dẫn đến sự vi kỷ hoạt quá mức của hệ thống miễn dịch, gây ra tổn thương cho các mô và cơ quan trong cơ thể.

Các nguyên nhân phổ biến gây sốc nhiễm trùng bao gồm vi khuẩn như Staphylococcus, Streptococcus, Escherichia coli (E. coli) và Pseudomonas aeruginosa, cũng như các vi khuẩn kí sinh trùng và nấm. Sốc nhiễm trùng cũng có thể xảy ra do vi-rút, nhưng điều này hiếm hơn.

Các triệu chứng của sốc nhiễm trùng có thể bao gồm:
1. Huyết áp thấp: Mạch máu sụt giảm do mất chất lưu chuyển và mở rộng mạch máu với mục đích duy trì dòng máu đến các cơ quan quan trọng.
2. Nhịp tim nhanh: Hệ thống tuần hoàn thúc đẩy hoạt động mạnh mẽ hơn để cố gắng duy trì tuần hoàn máu.
3. Nhiễm trùng da: Có thể xuất hiện da màu xanh hoặc tím do thiếu oxy, hoặc da có hiện tượng ban đỏ, ban nhọt.
4. Hôn mê: Do thiếu máu và oxy cung cấp cho não.
5. Nhiễm trùng phổi: Gây ra hội chứng suy hô hấp, do vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn tấn công phổi.

Sốc nhiễm trùng là một tình trạng cấp tính và nguy hiểm, yêu cầu điều trị ngay lập tức. Điều trị thường bao gồm sử dụng kháng sinh mạnh, dùng corticosteroid để kiềm chế phản ứng vi khuẩn, và thậm chí có thể cần đến việc hỗ trợ hệ thống tuần hoàn bằng cách sử dụng máy trợ tim hoặc tác động áp suất biểu lợi.
Sốc nhiễm trùng là một trạng thái cấp tính, nguy hiểm và tiềm ẩn nguy cơ tử vong. Nó được coi là một loại sốc đa cơ quan (multi-organ shock) vì nó ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và hệ thống trong cơ thể.

Các nguyên nhân gây sốc nhiễm trùng bao gồm vi khuẩn, vi rút, nấm, ký sinh trùng và các độc chất từ vi khuẩn. Sốc nhiễm trùng có thể xuất hiện sau một nhiễm trùng, bệnh viêm nhiễm, phẫu thuật hoặc chấn thương nghiêm trọng.

Sốc nhiễm trùng gây hại bằng cách kích hoạt một loạt các phản ứng vi kỷ hoạt trong hệ thống miễn dịch. Cụ thể, vi khuẩn hoặc độc chất từ vi khuẩn thâm nhập vào cơ thể, đi vào hệ tuần hoàn và lan rộng, gây ra một mô hình vi kỷ hoạt miễn dịch dữ dội. Sự vi kỷ hoạt miễn dịch gây ra sự giải phóng các chất gây viêm, như cytokines, chemokines và prostaglandins. Những chất này tạo ra một phản ứng vi kỷ hoạt loạn xạ, gây ra tổn thương cấu trúc tế bào, sốc tuần hoàn và hư hại cho mô và cơ quan.

Triệu chứng sốc nhiễm trùng có thể bao gồm:
- Huyết áp thấp: Một trong những triệu chứng chính của sốc nhiễm trùng là huyết áp thấp, do mất chất và suy giảm trở lực mạch máu.
- Nhịp tim nhanh: Cơ tim hoạt động mạnh mẽ hơn để đảm bảo duy trì lưu thông máu.
- Sự suy giảm áp lực tâm trương: Áp lực tâm trương (đo lực mà tim bơm máu cho toàn bộ cơ thể) bị suy giảm do hệ thống các mạch máu giãn nở và giảm điều chỉnh tăng cường tuần hoàn máu.
- Bất ổn huyết động: Hệ thống tuần hoàn hỗn loạn, gây ra sự biến đổi từ một trạng thái bất ổn đến một trạng thái sụt giảm.
- Thiếu máu: Sốc nhiễm trùng gây ra sự suy giảm cung cấp oxy đến các cơ quan, dẫn đến thiếu máu và tổn thương tế bào.
- Rối loạn chức năng nhiều cơ quan: Một số triệu chứng khác có thể bao gồm suy thận, suy tim, suy phổi, gan khả năng, tổn thương não và rối loạn huyết động.

Điều trị sốc nhiễm trùng bao gồm:
- Sử dụng kháng sinh mạnh: Điều trị chống vi khuẩn là rất quan trọng khi điều trị sốc nhiễm trùng.
- Điều chỉnh hàng nước và điện giữ cân bằng chất lưu chuyển: Điều trị bằng nạo vét tĩnh mạch để cung cấp chất lưu bổ sung và duy trì áp lực máu.
- Hỗ trợ hệ thống tuần hoàn: Điều trị có thể đòi hỏi sử dụng máy trợ tim và dùng thuốc tăng cường áp suất máu.

Sốc nhiễm trùng là một tình trạng cực kỳ nguy hiểm và cần yêu cầu chẩn đoán và điều trị sớm. Việc phát hiện và điều trị kịp thời có thể cứu sống người bệnh và giảm tỷ lệ tử vong.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sốc nhiễm trùng":

Gánh nặng sức khỏe toàn cầu từ các loại ung thư liên quan đến nhiễm trùng trong năm 2002 Dịch bởi AI
International Journal of Cancer - Tập 118 Số 12 - Trang 3030-3044 - 2006
Tóm tắt

Một số tác nhân gây nhiễm được xem là nguyên nhân gây ung thư ở người. Tỷ lệ của các loại ung thư khác nhau, và tất cả các loại ung thư trên toàn cầu và ở các khu vực khác nhau, đã được ước lượng bằng nhiều phương pháp; chủ yếu là bằng cách xem xét các bằng chứng về độ mạnh của mối liên hệ (rủi ro tương đối) và tỷ lệ mắc nhiễm trong các khu vực trên thế giới. Tổng số trường hợp ung thư do nhiễm trùng gây ra trong năm 2002 được ước tính là 1,9 triệu trường hợp, chiếm 17,8% gánh nặng ung thư toàn cầu. Các tác nhân chính bao gồm vi khuẩn Helicobacter pylori (5,5% tổng số ung thư), virus papilloma người (5,2%), virus viêm gan B và C (4,9%), virus Epstein‐Barr (1%), virus suy giảm miễn dịch của người (HIV) cùng với virus herpes người loại 8 (0,9%). Những nguyên nhân gây ung thư tương đối kém quan trọng hơn bao gồm schistosoma (0,1%), virus lymphotropic T của người loại I (0,03%) và sán lá gan (0,02%). Sẽ có 26,3% số ca ung thư ít hơn ở các nước đang phát triển (1,5 triệu ca mỗi năm) và 7,7% ở các nước phát triển (390.000 ca) nếu các bệnh nhiễm trùng này được phòng ngừa. Phân đoạn có thể quy cho các vị trí cụ thể khác nhau từ 100% ung thư cổ tử cung có thể quy cho virus papilloma đến tỷ lệ rất nhỏ (0,4%) ung thư gan (trên toàn cầu) do sán lá gan gây ra. © 2006 Wiley‐Liss, Inc.

Klebsiella spp. như Nhiễm Trùng Bệnh Viện: Dịch Tễ Học, Phân Loại, Các Phương Pháp Định Tuổi, và Yếu Tố Gây Bệnh Dịch bởi AI
Clinical Microbiology Reviews - Tập 11 Số 4 - Trang 589-603 - 1998
TÓM TẮT

Vi khuẩn thuộc chi Klebsiella thường gây nhiễm trùng bệnh viện ở người. Đặc biệt, chủng Klebsiella có ý nghĩa y tế quan trọng nhất, Klebsiella pneumoniae, chiếm tỷ lệ lớn trong số các nhiễm trùng đường tiểu, viêm phổi, nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng mô mềm mắc phải trong bệnh viện. Các ổ chứa bệnh lý chính cho sự truyền nhiễm của Klebsiella là đường tiêu hóa và tay của nhân viên bệnh viện. Do khả năng lan rộng nhanh chóng trong môi trường bệnh viện, những vi khuẩn này có xu hướng gây ra các đợt bùng phát nhiễm trùng bệnh viện. Các đợt bùng phát trong bệnh viện của các chủng Klebsiella đa kháng thuốc, đặc biệt là những chủng trong khu sơ sinh, thường do các loại chủng mới gây ra, được gọi là các chủng sản xuất β-lactamase phổ rộng (ESBL). Tỷ lệ các chủng sản xuất ESBL trong số các chủng Klebsiella lâm sàng đã liên tục tăng lên trong những năm gần đây. Các hạn chế điều trị dẫn đến đòi hỏi những biện pháp mới để quản lý nhiễm trùng Klebsiella trong bệnh viện. Trong khi các phương pháp định tuổi khác nhau là các công cụ dịch tễ học hữu ích để kiểm soát nhiễm trùng, những phát hiện gần đây về các yếu tố độc lực của Klebsiella đã cung cấp những hiểu biết mới về chiến lược gây bệnh của những vi khuẩn này. Yếu tố gây bệnh của Klebsiella như nang hoặc lipopolysaccharides hiện đang được coi là các ứng viên triển vọng cho nỗ lực tiêm chủng có thể phục vụ như các biện pháp kiểm soát nhiễm trùng miễn dịch.

#chi Klebsiella #Klebsiella pneumoniae #nhiễm trùng bệnh viện #β-lactamase phổ rộng (ESBL) #chiến lược gây bệnh #yếu tố độc lực #kháng thuốc đa dược phẩm #tiêm chủng #vi sinh bệnh viện #kiểm soát nhiễm trùng.
Nhiễm trùng liên quan đến vật liệu sinh học: Xác định đích đến trong cuộc đua tới bề mặt Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 4 Số 153 - 2012

Bài tổng quan này thảo luận về các phương pháp phát triển vật liệu sinh học giảm thiểu nhiễm trùng, đạt được sự cân bằng giữa tích hợp mô chủ và ngăn chặn sự bám dính của vi sinh vật.

β-Defensin ruột: Tách chiết phân tử và đặc trưng của một gen có biểu hiện tế bào biểu mô ruột có thể cảm ứng liên quan đến sự nhiễm trùng của Cryptosporidium parvum Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 66 Số 3 - Trang 1045-1056 - 1998
Một cơ sở chứng cứ ngày càng tăng cho thấy kháng sinh nội sinh góp phần vào phòng thủ bẩm sinh của các bề mặt màng nhầy ở động vật có vú. Tại gia súc, β-defensin tạo thành một gia đình lớn các peptide kháng sinh, mà các thành viên của nó đã được tách chiết từ màng nhầy hô hấp và miệng, cũng như từ các tế bào thực bào trong tuần hoàn. Một dòng clone gen bò mới với trình tự liên quan đến các α-defensin đã được tách chiết và đặc trưng hóa. cDNA tương ứng đã được tách chiết từ một thư viện ruột non; khung đọc mở của nó dự đoán một trình tự suy diễn của một β-defensin mới, mà chúng tôi gọi là β-defensin ruột (EBD). Phân tích Northern blot của nhiều mô bò cho thấy rằng mRNA EBD được biểu hiện cao trong ruột non xa và đại tràng, những vị trí giải phẫu khác biệt so với những β-defensin đã được đặc trưng trước đó. mRNA EBD cũng đã được định vị thêm bằng phương pháp lai cảm ứng tại chỗ (in situ hybridization) đến các tế bào biểu mô của đại tràng và các crypts của ruột non. Sự nhiễm trùng của hai con bê với ký sinh trùng ruột Cryptosporidium parvum đã kích thích sự tăng 5- và 10 lần số lượng mRNA EBD trong các mô ruột so với mức kiểm soát. Một chiến lược PCR gắn kết đã được sử dụng để xác định các mRNA β-defensin khác được biểu hiện trong ruột. Ngoài EBD, một số cDNA có số lượng thấp tương ứng với các mRNA β-defensin khác đã được clone. Hầu hết những clone này mã hóa cho các β-defensin đã được đặc trưng trước đó hoặc các isoform liên quan gần, nhưng hai clone mã hóa cho một prepro-β-defensin chưa được đặc trưng trước đó. Bằng chứng từ Northern blot hỗ trợ rằng tất cả các gen β-defensin khác này được biểu hiện với mức độ thấp hơn so với gen EBD trong mô ruột. Hơn nữa, một số các mRNA β-defensin này cũng rất phong phú trong tủy xương, cho thấy rằng trong mô ruột, sự biểu hiện của chúng có thể đến từ các tế bào nguồn gốc huyết học. Các chiết xuất từ màng nhầy ruột non lấy từ bò khỏe mạnh có nhiều phân đoạn sắc ký hoạt động, như được xác định bởi xét nghiệm kháng khuẩn, và một peptide đã được tinh chế một phần. Peptide này tương ứng với một trong số các cDNA có số lượng thấp. Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng về sự biểu hiện của β-defensin trong mô ruột và rằng mRNA mã hóa một β-defensin chính của mô ruột, EBD, được biểu hiện có thể cảm ứng trong các tế bào biểu mô ruột. Những phát hiện này hỗ trợ giả thuyết rằng β-defensin có thể góp phần vào sự phòng thủ của vật chủ đối với màng nhầy ruột.
Kháng sinh của các chủng Escherichia coli gây nhiễm trùng đường tiết niệu trong cộng đồng và bệnh viện, London 2005 – 2006 Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2008
Tóm tắt Bối cảnh

Escherichia coli là nguyên nhân phổ biến nhất gây nhiễm trùng đường tiết niệu (UTI) cộng đồng và trong bệnh viện. Việc điều trị bằng kháng sinh thường dựa trên dữ liệu nhạy cảm từ các nghiên cứu giám sát địa phương. Do đó, chúng tôi đã tiến hành để xác định mức độ kháng thuốc đối với 8 tác nhân kháng khuẩn thường dùng trong số tất cả các chủng phân lập từ nước tiểu thu được trong vòng 12 tháng.

Phương pháp

Khả năng nhạy cảm với kháng sinh đối với ampicillin, amoxicillin/clavulanate, cefalexin, ciprofloxacin, gentamicin, nitrofurantoin, trimethoprim và cefpodoxime đã được xác định cho 11,865 chủng E. coli trong nước tiểu thu được từ bệnh nhân cộng đồng và bệnh nhân nội trú ở Đông London.

Kết quả

Nitrofurantoin là tác nhân hoạt động mạnh nhất (94% nhạy cảm), tiếp theo là gentamicin và cefpodoxime. Tỷ lệ kháng cao đối với ampicillin (55%) và trimethoprim (40%) thường xảy ra kết hợp trong cả hai nhóm mẫu phân lập được quan sát thấy. Mặc dù các mẫu thể hiện sự kháng thuốc với nhiều nhóm thuốc là hiếm, sự kháng cefpodoxime, cho thấy sự sản xuất β-lactamase mở rộng, đã được quan sát ở 5,7% các mẫu cộng đồng và 21,6% các mẫu bệnh viện.

Kết luận

Trừ nitrofurantoin, sự kháng lại các tác nhân thường được dùng làm liệu pháp uống thực nghiệm cho UTI là cực kỳ cao. Mức độ kháng lại trimethoprim và ampicillin khiến chúng không thích hợp cho việc sử dụng thực nghiệm. Cần tiếp tục giám sát và điều tra các tác nhân uống khác để điều trị UTI trong cộng đồng.

Lớp phủ mỏng tự giới hạn lấy cảm hứng từ nghêu có khả năng kháng sinh toàn diện để ngăn ngừa nhiễm trùng liên quan đến catheter trong mô hình chuột và heo Dịch bởi AI
Advanced healthcare materials - Tập 10 Số 6 - 2021
Tóm tắt

Các nhiễm trùng đường tiết niệu liên quan đến catheter (CAUTIs) là một trong những nhiễm trùng bệnh viện phổ biến nhất. Các chiến lược phủ hiện tại nhằm ngăn ngừa sự hình thành sinh khối liên quan đến catheter bị hạn chế bởi hiệu quả kém trong dài hạn và khả năng ứng dụng hạn chế trên các vật liệu đa dạng. Trong nghiên cứu này, các tác giả báo cáo về một lớp phủ không bám bẩn hiệu quả cao với hoạt động ngăn ngừa sinh khối lâu dài và có thể ứng dụng cho nhiều loại catheter khác nhau. Lớp phủ mỏng này có tính chất trơn, ổn định, đồng nhất cao và cho thấy khả năng ngăn ngừa sự hình thành sinh khối trên chín chủng vi khuẩn khác nhau cũng như ngăn ngừa sự di chuyển của vi khuẩn trên bề mặt catheter. Phương pháp lớp phủ được điều chỉnh cho các catheter kích thước người (cả nội lòng và ngoại lòng) và cho thấy hoạt động ngăn ngừa sinh khối lâu dài trên 30 ngày trong các điều kiện khó khăn. Các catheter được phủ đã được thử nghiệm trong mô hình CAUTI trên chuột và cho thấy hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa sự phát triển của cả vi khuẩn Gram dương và Gram âm. Hơn nữa, các catheter Foley với kích thước người đã được đánh giá trong mô hình CAUTI trên heo và cho thấy hiệu quả ổn định trong việc giảm sự hình thành sinh khối của Escherichia coli (E. coli) lên tới hơn 95%. Tính đơn giản của phương pháp phủ, khả năng áp dụng lớp phủ này lên nhiều loại vật liệu khác nhau, và hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa sự bám dính của vi khuẩn làm tăng khả năng ứng dụng của phương pháp này trong phát triển các thiết bị y tế kháng nhiễm thế hệ tiếp theo.

Sự Truyền Tải Năng Động Của Staphylococcus Aureus Trong Đơn Vị Chăm Sóc Đặc Biệt Dịch bởi AI
International Journal of Environmental Research and Public Health - Tập 17 Số 6 - Trang 2109

Staphylococcus aureus là một tác nhân gây bệnh vi khuẩn quan trọng. Nghiên cứu này đã sử dụng các dữ liệu dịch tễ học đã biết về Staphylococcus để theo dõi S. aureus giữa bệnh nhân, bề mặt, tay của nhân viên và không khí trong một đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU) với 10 giường bệnh. Phương pháp: Bệnh nhân, không khí và bề mặt đã được kiểm tra tổng số khuẩn lạc và S. aureus bằng cách sử dụng slide nhúng, đĩa lắng và một thiết bị thu mẫu khe MAS-100 mỗi tháng một lần trong 10 tháng. Dữ liệu được mô hình hóa dựa trên các tiêu chuẩn được đề xuất cho không khí và bề mặt, và nhiễm trùng vi khuẩn Staphylococcus có được trong ICU. Phân tích kiểu gen toàn bộ tế bào (WGS) đã chứng minh các con đường truyền tải khả thi giữa các bể chứa. Kết quả: Các vị trí thường xuyên bị chạm vào có khả năng bị ô nhiễm cao hơn (>12 cfu/cm2; p = 0.08). Tổng thể, 235 trên tổng số 500 (47%) vị trí không đạt tiêu chuẩn bề mặt (≤2.5 cfu/cm2); 20 trên 40 (50%) mẫu không khí thụ động không đạt tiêu chuẩn “Chỉ số Không khí Vi sinh” (2 cfu/9 cm đĩa/giờ), và 15/40 (37.5%) mẫu không khí không đạt tiêu chuẩn không khí (<10 cfu/m3). Dữ liệu từ đĩa lắng gần giống với số lượng bề mặt hơn là dữ liệu không khí tự động; số lượng bề mặt có khả năng phản ánh tỷ lệ vượt/không vượt cho không khí là 5 cfu/cm2. Số lượng bề mặt/giường có liên quan đến tỷ lệ nhiễm trùng Staphylococcus (p = 0.012). Trong 34 cặp S. aureus không thể phân biệt, 20 (59%) cho thấy sự truyền tải tự phát, với 4 cặp (12%) khác xảy ra giữa các bệnh nhân. Bốn cặp (12%) liên kết bệnh nhân với các vị trí chạm tay và sáu (18%) liên kết S. aureus trong không khí, tay của nhân viên và các vị trí chạm tay. Kết luận: Hầu hết nhiễm trùng S. aureus có được trong ICU là tự phát, trong khi tay của nhân viên và không khí thường hiếm khi liên quan đến việc truyền tải tiếp theo. Đĩa lắng có thể được sử dụng cho việc kiểm tra môi trường định kỳ. Nhiễm trùng Staphylococcus trong ICU được phục vụ tốt nhất bằng việc kiểm tra đầu vào, vệ sinh định kỳ và vệ sinh tay.

#Staphylococcus aureus #truyền tải #chăm sóc đặc biệt #ô nhiễm môi trường #nhiễm trùng.
Cải thiện kết quả điều trị sốc nhiễm trùng tại bệnh viện: Giới thiệu gói ‘Sepsis Six’ Dịch bởi AI
Nursing in Critical Care - Tập 24 Số 1 - Trang 33-39 - 2019
TÓM TẮTĐặt vấn đề

Gói Sepsis Six được thiết kế nhằm tạo điều kiện can thiệp sớm với ba bước chẩn đoán và ba bước điều trị, được thực hiện trong vòng 1 giờ đối với bệnh nhân nghi ngờ bị sốc nhiễm trùng.

Mục tiêu

Nghiên cứu tác động của việc thực hiện gói ‘Sepsis Six’ bởi đội ngũ Chăm sóc Tích cực đến kết quả của bệnh nhân.

Thiết kế

Trong một nghiên cứu quan sát tiến cứu, tất cả bệnh nhân trưởng thành trên khoa chung từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 1 năm 2014 có tình trạng nhiễm khuẩn được sàng lọc và điều trị bởi đội ngũ Chăm sóc Tích cực đã được đưa vào nghiên cứu.

Phương pháp

Thước đo kết quả chính là sự thay đổi trong Điểm Cảnh báo Sớm Quốc gia sau khi thực hiện gói Sepsis Six trong vòng 24 giờ. Các kết quả thứ cấp bao gồm tỷ lệ tử vong trong 90 ngày và tỷ lệ tuân thủ gói điều trị.

Kết quả

Tổng cộng có 207 bệnh nhân đã được đưa vào phân tích. Tổng tỷ lệ tuân thủ gói điều trị đạt 84%. Điểm Cảnh báo Sớm Quốc gia giảm đáng kể 24 giờ sau khi áp dụng gói Sepsis Six, từ 7,4 ± 2,6 xuống 3,1 ± 2,4 (p < 0,001). Phân phối của Điểm Cảnh báo Sớm Quốc gia đã thay đổi đáng kể. Tỷ lệ tử vong ở 90 ngày thấp hơn khi so sánh những bệnh nhân có dấu hiệu nhiễm khuẩn trong vòng 48 giờ nhập viện với những người có dấu hiệu nhiễm khuẩn sau 48 giờ nhập viện (14,5% so với 35,4% p < 0,03) mặc dù các biến sinh lý ban đầu tương tự nhau.

Kết luận

Chúng tôi nhận thấy kết quả điều trị tốt hơn sau khi áp dụng gói Sepsis Six. Việc giao hàng gói điều trị một cách đáng tin cậy, được định nghĩa là 80% bệnh nhân nhận được tiêu chuẩn chăm sóc, là khả thi, và dữ liệu cải thiện chất lượng của chúng tôi cho thấy điều này có thể bền vững trong môi trường của chúng tôi.

Liên quan đến thực hành lâm sàng

Gói Sepsis Six có thể giảm thiểu suy giảm sinh lý, được theo dõi bằng Điểm Cảnh báo Sớm Quốc gia. Việc giao hàng nhất quán gói điều trị có thể dẫn đến kết quả tốt hơn cho bệnh nhân.

#Sepsis #Sepsis Six #chăm sóc tích cực #kết quả bệnh nhân #tỷ lệ tử vong #cải thiện chất lượng
Sốc nhiễm trùng do Pasteurella multocida sau ghép gan được điều trị bằng drotrecogin alfa (kích hoạt) Dịch bởi AI
Transplant Infectious Disease - Tập 9 Số 3 - Trang 233-236 - 2007

Tóm tắt: Sốc nhiễm trùng nặng và việc tiến triển đến sốc nhiễm trùng trong người nhận ghép tạng có liên quan đến tỷ lệ tử vong cao. Chúng tôi mô tả một trường hợp sốc nhiễm trùng cấp tính ở một bệnh nhân ghép gan do Pasteurella multocida, một loại coccobacillus gram âm thường gặp ở mèo và chó nuôi trong nhà. P. multocida là nguyên nhân hiếm gặp gây nhiễm khuẩn huyết và chưa được ghi nhận là nguyên nhân gây sốc nhiễm trùng sau khi ghép gan. Ngoài việc điều trị tiêu chuẩn, bệnh nhân đã được quản lý bằng drotrecogin alfa (kích hoạt), một loại thuốc có cơ sở bằng chứng cho thấy cải thiện đáng kể kết quả ở bệnh nhân sốc nhiễm trùng nặng trong quần thể không được ghép tạng. Các yếu tố nguy cơ đã biết, diễn biến lâm sàng, và kết quả của nhiễm trùng nặng liên quan đến P. multocida cũng được xem xét một cách ngắn gọn. Trường hợp này minh họa cho nhu cầu mà người nhận ghép tạng và các nhà cung cấp dịch vụ y tế của họ phải cân nhắc cẩn thận về nguy cơ nhiễm trùng nặng liên quan đến tiếp xúc với động vật nuôi trong nhà.

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN SỐC NHIỄM KHUẨN TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và phân tích một số yêu tố liên quan đến kết quả điều trị bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 47 bệnh nhânsốc nhiễm khuẩn. Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 61,4 ±15,2. Tuổi cao nhất là 92 và tuổi thấp nhất là 15. Giới tính nam chiếm tỷ lệ cao hơn 76,6%, nữ chỉ chiếm 23,4%.Đa phần các bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có không có sốt hoặc sốt nhẹ. Sốt cao chỉ chiếm 23,4%, trong khi đó tỉ lệ bệnh nhân không sốt chiếm cao nhất tới 61,7%. Vị trí ổ nhiễm khuẩn tiên phát thường gặp chủ yếu là cơ quan hô hấp và tiêu hóa, trong đó hô hấp chiếm 44,7%, tiêu hóa là 34%. Kết quả nuôi cấy vi khuẩn chỉ cho kết quả dương tính 17%. Gía trị trung bình lactat máu của bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn là 6,82 ± 4,16. Đa số bệnh nhân có gái trị lactat máu > 6 mmol/l chiếm tỉ lệ 51,1%. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% giữa tình trạng rối loạn đông máu, thở máy xâm nhập và kết cục ra viện ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn. Kết luận: Bệnh nhân tuổi càng cao càng có nguy cơ sốc nhiễm khuẩn cao hơn. Nam giới có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn nữ giới. Ổ nhiễm khuẩn tiên phát thường gặp nhất là cơ quan hô hấp, tỉ lệ cấy máu dương tính thấp. Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% giữa tình trạng rối loạn đông máu, thở máy xâm nhập và kết cục ra viện ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn.
#Lâm sàng #cận lâm sàng #yếu tố liên quan #sốc nhiễm khuẩn.
Tổng số: 113   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10